Thuốc arv là gì? Các công bố khoa học về Thuốc arv

Thuốc ARV (Antiretroviral) là một loại thuốc được sử dụng để điều trị virus gây ra HIV/AIDS. ARV là một phần quan trọng của điều trị HIV và được sử dụng để ngăn...

Thuốc ARV (Antiretroviral) là một loại thuốc được sử dụng để điều trị virus gây ra HIV/AIDS. ARV là một phần quan trọng của điều trị HIV và được sử dụng để ngăn chặn vi-rút phát triển trong cơ thể, tăng cường hệ miễn dịch và giảm nguy cơ lây nhiễm cho người khác. ARV có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với nhau để tạo thành các chế độ điều trị hiệu quả cho bệnh nhân HIV/AIDS.
Thuốc ARV (Antiretroviral) là một nhóm thuốc được sử dụng để điều trị và kiểm soát virus HIV (Vi-rút Gây Sốt HIV) trong cơ thể. Trước khi có ARV, HIV/AIDS được coi là một bệnh không thể điều trị. Nhưng từ khi ARV được phát triển, nó đã thay đổi cuộc sống của hàng triệu người sống chung với HIV.

Có nhiều loại thuốc ARV khác nhau, được phân thành các lớp khác nhau dựa trên cách tác động đến quá trình sao chép và phát triển của vi-rút HIV. Các loại ARV thông dụng bao gồm:

1. Inhibitor của enzyme ngược transcriptase (Nucleoside Reverse Transcriptase Inhibitors - NRTIs) và Non-Nucleoside Reverse Transcriptase Inhibitors (NNRTIs): Những thuốc này ngăn chặn việc sao chép gene của HIV thành cDNA, một bước quan trọng trong quá trình phát triển của nó.

2. Inhibitor của enzyme protease (Protease Inhibitors - PIs): Những thuốc này ngăn chặn sự phân cắt protein của HIV, ngăn chặn việc tạo thành các hạt vi-rút mới.

3. Inhibitor của enzyme integrase (Integrase Inhibitors): Những thuốc này ngăn chặn việc vi-rút HIV tích hợp gen của nó vào gen của người nhiễm HIV.

4. Inhibitor của sự hấp thụ của vi-rút (Entry Inhibitors): Có hai loại entry inhibitors, bao gồm Fusion Inhibitors và CCR5 Antagonists, có tác dụng ngăn chặn việc HIV vào trong tế bào miễn dịch.

Để đạt hiệu quả tốt nhất, việc sử dụng ARV thường được kết hợp thành các chế độ điều trị kết hợp (còn được gọi là HAART - Highly Active Antiretroviral Therapy). Các chế độ điều trị này bao gồm một hoặc nhiều loại thuốc ARV khác nhau để tạo hiệu ứng kết hợp và giảm nguy cơ phát triển sự kháng thuốc của HIV.

Thuốc ARV không thể chữa khỏi HIV/AIDS, nhưng chúng có thể làm giảm mức độ nhiễm virus trong cơ thể và tăng cường hệ miễn dịch, giúp bệnh nhân sống lâu hơn và giảm nguy cơ lây nhiễm cho người khác. Tuy nhiên, việc duy trì liều lượng thuốc đều đặn và tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ là rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả điều trị.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thuốc arv":

Tái sản xuất của Virus Parvovirus MVM I. Sự phụ thuộc của sự nhân lên virus và hình thành đốm trên sự tăng trưởng tế bào Dịch bởi AI
Journal of Virology - Tập 10 Số 4 - Trang 586-590 - 1972

Đã phát triển một thử nghiệm đốm cho virus nhỏ của chuột. Đơn vị lây nhiễm là một hạt đơn lẻ. Kích thước đốm được xác định bởi mức độ phân chia tế bào trong lớp đơn bào bị nhiễm. Sự nhiễm trùng các tế bào nghỉ và tế bào được kích thích bằng huyết thanh gợi ý rằng sự nhân lên virus phụ thuộc vào chức năng của tế bào chủ mà không được biểu hiện bình thường trong các tế bào nghỉ.

Kích hoạt các Cathepsin trong Bào Tương gây Chết Tế Bào Glioma Kháng Cisplatin và TRAIL do Virus Parvovirus H-1 Dịch bởi AI
Journal of Virology - Tập 81 Số 8 - Trang 4186-4198 - 2007
TÓM TẮT

Glioma thường kháng lại việc kích thích chết tế bào theo con đường apoptosis do sự phát triển của các cơ chế sinh tồn trong quá trình biến đổi ác tính của tế bào sao. Đặc biệt, biểu hiện quá mức của các thành viên họ Bcl-2 can thiệp vào quá trình khởi động apoptosis do các tác nhân gây tổn thương DNA (ví dụ: cisplatin) hoặc các ligand gây chết hoà tan (ví dụ: TRAIL). Sử dụng các dòng nuôi cấy số lượng thấp của tế bào glioma, chúng tôi đã chứng minh rằng virus parvovirus H-1 có khả năng gây chết ở các tế bào kháng TRAIL, cisplatin, hoặc cả hai, ngay cả khi Bcl-2 được biểu hiện quá mức. Parvovirus H-1 gây chết tế bào thông qua cả việc tích lũy các cathepsin B và L trong bào tương của các tế bào bị nhiễm và việc giảm mức độ của cystatin B và C, hai chất ức chế cathepsin. Việc suy giảm của bất kỳ tác động nào trong hai tác động này bảo vệ tế bào glioma khỏi hiệu ứng tiêu diệt virus. Trong tế bào sao người bình thường, parvovirus H-1 không thể kích thích cơ chế giết chết. Trong cơ thể sống, sự nhiễm parvovirus H-1 vào tế bào glioma chuột được cấy trong não động vật thụ nhận cũng kích hoạt cathepsin B. Báo cáo này lần đầu tiên xác định các chất năng của tế bào chịu trách nhiệm cho hoạt động giết chết của parvovirus H-1 đối với tế bào não ác tính và mở ra một hướng điều trị tránh khỏi sự kháng cự thường xuyên của chúng đối với các chất gây chết khác.

#Glioma #Parvovirus H-1 #apoptosis #Bcl-2 #TRAIL #cisplatin #cathepsins #cystatin B #cystatin C #ung thư não #tế bào sao #kháng thuốc #cơ chế sinh tồn.
Yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ điều trị ARV của trẻ vị thành niên nhiễm HIV tại Phòng khám ngoại trú, Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2022-2023
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm: 1) Mô tả đặc điểm của bệnh nhi và tuân thủ điều trị (TTĐT) của trẻ vị thành niên (VTN) nhiễm HIV tại Phòng khám ngoại trú, Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2022-2023; 2) Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến TTĐT ARV (thuốc kháng virus) của trẻ VTN nhiễm HIV. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên 222 trẻ VTN nhiễm HIV có đáp ứng tiêu chuẩn nghiên cứu đến khám tại Phòng khám ngoại trú, Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2022-2023 bằng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Tỷ lệ TTĐT của trẻ VTN chiếm 84,2%. Một số yếu tố ảnh hưởng đến TTĐT ARV của trẻ VTN nhiễm HIV gồm: trẻ được tham gia lớp tư vấn tại phòng khám TTĐT gấp 2,32 lần so với trẻ không tham gia (p<0,05); trẻ có học vấn có trình độ tương đương với tuổi TTĐT ARV cao gấp 3,46 lần so với nhóm tuổi không có trình độ học vấn tương đương với nhóm tuổi (CI95% 1,39-8,57, X2=7,87, p=0); trẻ được bộc lộ hoàn toàn tình trạng nhiễm HIV tại thời điểm 10-12 tuổi có tỷ lệ TTĐT cao hơn trẻ được bộc lộ tình trạng nhiễm ở các thời điểm khác, kết quả này có ý nghĩa thống kê (X2=10,5 p<0,05); người chăm sóc chính (NCSC) tham gia nghiên cứu biết rõ về HIV/AIDS giúp trẻ TTĐT ARV cao hơn so với những trẻ có NCSC thiếu hiểu biết về HIV/AIDS, kết quả này có ý nghĩa thống kê (X2=6,5, p<0.05). Kết luận: Tỷ lệ TTĐT ARV của trẻ VTN chiếm 84,2%, tỷ lệ này chưa cao. Một số yếu tố làm tăng tỷ lệ TTĐT là: trẻ được bộc lộ tình trạng nhiễm khi 10-12 tuổi, trẻ được tham gia lớp học tư vấn về HIV, trình độ học vấn tương đương với tuổi, sự hiểu biết về HIV của NCSC.
#HIV #thuốc kháng virus #trẻ vị thành niên #tuân thủ điều trị
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA PHÁC ĐỒ ARV TDF+3TC+DTG TRÊN BỆNH NHÂN HIV/AIDS TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỐNG ĐA 2020-2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 2 - 2022
Nhiễm HIV/AIDS là gánh nặng về bệnh tật cho người bệnh và gia đình bệnh nhân cũng như toàn xã hội. Điều trị bằng các thuốc (ARV-anti retroviral drugs) đang là biện pháp điều trị tối ưu cho nhóm bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS. Bộ Y tế Việt Nam mới đây phê chuẩn và khuyến cáo sử dụng phác đồ TDF+3TC+DTG. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị và tác dụng không mong muốn của phác đồ TDF + 3TC + DTG trên bệnh nhân HIV/AIDS tại bệnh viện đa khoa Đống Đa. Đối tượng: Nghiên cứu trên 61 bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm HIV/AIDS và được điều trị bằng phác đồ TDF+3TC+DTG theo dõi đủ 24 tuần, trong thời gian từ 2/202- đến 6/2021. Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu kết hợp tiến cứu. Kết quả: Cân nặng, BMI và số lượng CD4 tăng có ý nghĩa thống kê (p<0,05) tại thời điểm sau 24 tuần điều trị. Có 45/61 (73,8%) bệnh nhân đạt mức vi rút ức chế tối đa (dưới ngưỡng phát hiện). Tuân thủ điều trị có liên quan đến kết quả điều trị (OR=2,32 CI95% 0,21-8,643, p<0,05). Kết luận: Phác đồ thuốc ARV TDF+3TC+DTG có hiệu quả điều trị tốt trên bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS (cân nặng, CD4 tăng sau 24 tuần điều trị và vi rút được ức chế đạt tỷ lệ cao). Nhóm bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt có khả năng ức chế vi rút ở mức tối đa cao hon 2,32 lần với nhóm tuân thủ điều trị không tốt.
#Nhiễm HIV/AIDS #Thuốc ARV #Dolutegravir
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁP ỨNG ĐIỀU TRỊ THUỐC ARV CỦA NGƯỜI BỆNH TẠI HAI CƠ SỞ CHĂM SÓC ĐIỀU TRỊ HIV/AIDS TỈNH YÊN BÁI NĂM 2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả thực trạng đáp ứng điều trị thuốc ARV và xác định một số yếu tố liên quan đến đáp ứng điều trị của người bệnh tại hai cơ sở chăm sóc điều trị tỉnh Yên Bái năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang triển khai từ 01/01/2021 đến 31/8/2021 với 399 người bệnh nhiễm HIV trên 18 tuổi, đang được quản lý và điều trị ARV tại cơ sở chăm sóc điều trị HIV/AIDS Bệnh viên đa khoa khu vực Nghĩa Lộ và Trung tâm y tế thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Kết quả. Trong tổng số người bệnh đang được quản lý và điều trị ARV, 96,2% người bệnh đáp ứng điều trị thuốc ARV, trong đó 100% người bệnh sử dụng phác đồ bậc 2 có đáp ứng điều trị. Các yếu tố liên quan đến đáp ứng điều trị bao gồm: trình độ học vấn Trung học phổ thông (aOR= 11; 95% CI: 2,6-46,9), thời gian điều trị ARV (aOR=1,3; 95% CI: 1,06-1,6) và tuân thủ điều trị (aOR=5,6; 95% CI: 1,4-22,6). Kết luận. Cần tăng cường quản lý, hỗ trợ điều trị và tăng cường tư vấn để nâng cao sự tuân thủ điều trị, từ đó giúp bệnh nhân có đáp ứng điều trị ARV tốt hơn.
#HIV/AIDS #ARV #đáp ứng điều trị #Yên Bái
Canxi, phun thuốc nấm và mật độ tán ảnh hưởng đến tình trạng thối sau thu hoạch của quả bơ Dịch bởi AI
Australasian Plant Pathology - Tập 36 - Trang 22-31 - 2007
Một nghiên cứu đã được thực hiện tại tám vườn bơ vào các năm 1999, 2000 và 2001 để kiểm tra ảnh hưởng của các yếu tố trước thu hoạch đến tình trạng thối sau thu hoạch của quả bơ ‘Hass’ tại New Zealand. Thêm 14 vườn bơ đã được lấy mẫu vào năm 1999, trong đó 13 vườn được lấy mẫu vào năm 2000, tùy thuộc vào sự sẵn có của trái. Các vườn bơ được lựa chọn sau khi tham khảo ý kiến với các chuyên gia trong ngành nhằm thu thập mẫu đại diện cho chất lượng trái cây tại New Zealand. Trái bơ được thu hoạch vào đầu tháng Giêng với hàm lượng chất khô khoảng 33%, sau đó được bảo quản và chín ở nhiệt độ 20°C. Trái bơ được đánh giá về tình trạng thối đầu cuống và thối thân khi chín, và nấm từ các vết thối được phân lập và xác định. Dữ liệu thu thập từ 3 năm tại cùng tám vườn bơ cho thấy tỷ lệ thối đầu cuống có liên hệ tuyến tính với số lần phun thuốc nấm, chủ yếu là đồng và một vài lần benomyl. Trong các năm 1999 và 2000, một chỉ số mô tả mật độ tán và số lượng nhánh chết trong tán có liên quan đáng kể đến tỷ lệ thối thân, nhưng không liên quan đến tỷ lệ thối đầu cuống. Năm 2000, một mối liên hệ đáng kể được tìm thấy giữa tỷ lệ và mức độ thối thân với hàm lượng canxi trong trái. Tình trạng thối thân giảm với nhiệt độ và lượng mưa tăng trong năm 2000 khi những dữ liệu này được thu thập từ bảy vườn bơ. Ngược lại, hàm lượng canxi trong trái có mối liên hệ tích cực với các yếu tố này. Tác nhân gây bệnh phổ biến nhất từ các mẫu phân lập là Botryosphaeria parva, tiếp theo là Colletotrichum acutatum. Để cải thiện chất lượng trái bơ tại New Zealand, khuyến nghị rằng các nhà trồng trọt nên phun thuốc nấm nhiều hơn tám lần và bổ sung canxi nhằm tăng tỷ lệ (canxi + magiê)/kali vượt quá 0,065 trong trái.
#bơ #thối sau thu hoạch #canxi #thuốc nấm #mật độ tán
Tổng hợp nanoparticle bạc và vàng từ dịch chiết lá Jasminum nervosum và hoạt động diệt ấu trùng của chúng đối với véc tơ giun chỉ và virut arbo Culex quinquefasciatus Say (Diptera: Culicidae) Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 22 - Trang 17753-17768 - 2015
Nanoparticle bạc và vàng từ Jasminum nervosum L. có các tính chất quang học độc đáo như dải hấp thụ rộng trong vùng nhìn thấy của quang phổ điện từ. Việc xác định các particle này bằng cách sử dụng phổ kế UV, quang phổ hồng ngoại biến đổi Fourier, nhiễu xạ tia X và kính hiển vi điện tử truyền dẫn đã xác nhận rằng các hạt là bạc (AgNPs) và vàng (AuNPs) có kích thước từ 4–22 nm và 2–20 nm với kích thước trung bình lần lượt là 9.4 nm và 10 nm. AgNPs và AuNPs từ J. nervosum có hoạt tính diệt ấu trùng cao đối với véc tơ giun chỉ và virut arbo, Culex quinquefasciatus, hơn so với dịch chiết lá nước. Nồng độ gây chết (LC50 và LC95) được quan sát đối với ấu trùng tuổi ba là 57.40 và 144.36 μg/ml cho AgNPs và 82.62 và 254.68 μg/ml cho AuNPs sau 24 giờ điều trị, tương ứng. Thời gian chết để tiêu diệt 50% ấu trùng C. quinquefasciatus là 2.24 và 4.51 giờ ở nồng độ 150 μg/ml của AgNPs và AuNPs, trong khi đối với dịch chiết lá nước của J. nervosum thì là 9.44 giờ ở nồng độ 500 μg/ml (F 2,14 = 397.51, P < 0.0001). Biểu đồ phân tích thành phần chính trình bày sự phân cụm khác nhau giữa dịch chiết lá nước, AgNP và AuNPs liên quan đến liều lượng gây chết và thời gian gây chết. Kết luận từ các phát hiện hiện tại cho thấy các AgNPs và AuNPs được tổng hợp sinh học từ dịch chiết lá nước của J. nervosum có thể là một loại thuốc trừ sâu nanobi an toàn hơn cho môi trường và có hiệu quả diệt ấu trùng tiềm năng đối với ấu trùng C. quinquefasciatus, có thể được sử dụng để phòng ngừa nhiều bệnh tật đáng sợ.
#nanoparticle bạc #nanoparticle vàng #Jasminum nervosum #hoạt động diệt ấu trùng #Culex quinquefasciatus #thuốc trừ sâu sinh học
Ảnh hưởng của việc phân loại kích thước đến sự tăng trưởng, ăn thịt lẫn nhau và tỷ lệ sống sót của cá chép châu Âu (Perca fluviatilis L.) giai đoạn hậu ấu trừ Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 27 - Trang 945-955 - 2019
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của việc phân loại kích thước đến hiệu quả nuôi dưỡng cá chép châu Âu trong giai đoạn hậu ấu trừ. Cá chép 34 ngày tuổi được nuôi trong vòng 2 tuần trong ba nhóm thí nghiệm: nhóm kích thước nhỏ (SM, trọng lượng trung bình 0.061 ± 0.011 g), nhóm kích thước lớn (SL, trọng lượng trung bình 0.148 ± 0.024 g) và nhóm không phân loại (US, trọng lượng trung bình 0.105 ± 0.048 g) trong hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (21 °C; 12L:12D). Vào cuối thí nghiệm, tỷ lệ tăng trưởng đặc biệt (% ngày−1) ở nhóm SM (9.48 ± 0.34) cao hơn đáng kể (P < 0.05) so với nhóm SL (6.95 ± 0.40) và nhóm US (8.35 ± 0.60); tuy nhiên, sự tương quan về kích thước (trọng lượng ban đầu so với trọng lượng cuối) vẫn được duy trì trong tất cả các nhóm thí nghiệm (rsp > 0.77). Tăng trưởng sinh khối cá (% của IBs) cao hơn đáng kể (P < 0.05) ở cả hai nhóm phân loại là 344 ± 29 và 256 ± 6 cho nhóm SM và SL, tương ứng, so với nhóm US (233 ± 10), điều này trực tiếp xuất phát từ việc sống sót cao hơn ở các nhóm phân loại (> 90.0%) so với nhóm US (75.6%). Sự khác biệt trong tỷ lệ sống sót quan sát được là do tổn thất đáng kể thấp hơn do kiểu ăn thịt lẫn nhau loại I ở cả hai nhóm phân loại, 4.3 và 3.2% cho nhóm SM và SL, tương ứng, so với nhóm US (> 18.0%) (P < 0.05). Kết luận cho thấy việc phân loại kích thước cá chép châu Âu hậu ấu trừ có tác động tích cực đến hiệu quả nuôi dưỡng, được đo bằng sự tăng trưởng sinh khối cao hơn đáng kể, trực tiếp xuất phát từ tỷ lệ sống sót cao hơn, nhờ vào tổn thất thấp hơn gây ra bởi hiện tượng ăn thịt lẫn nhau loại I.
#cá chép châu Âu #phân loại kích thước #hiệu quả nuôi trồng #tỷ lệ sống sót #ăn thịt lẫn nhau
Hiệu Quả Diệt Nhặng Hứa Hẹn Của Nanoliposome Chứa Carvone và Tinh Dầu Mentha spicata và Tanacetum balsamita Đối Với Anopheles stephensi Dịch bởi AI
Acta Parasitologica - - Trang 1-11 - 2023
Việc sử dụng thuốc trừ sâu tổng hợp để kiểm soát sự lây lan của các bệnh do muỗi truyền đã gây ô nhiễm môi trường và kháng thuốc trừ sâu ở muỗi. Do đó, sự phát triển của các loại thuốc trừ sâu xanh mới đã nhận được nhiều sự quan tâm để vượt qua những vấn đề này. Nanoliposome chứa carvone và tinh dầu đã được chế tạo lần đầu tiên. Các đặc tính vật lý - hóa học của nanoliposome (kích thước hạt, hình thái và khả năng tải thành công) đã được đánh giá bằng phương pháp Tán xạ ánh sáng động (DLS), Kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) và Phân tích phản xạ hoàn toàn suy giảm - Biến đổi Fourier hồng ngoại (ATR-FTIR). Các hiệu ứng diệt ấu trùng của carvone, tinh dầu Mentha spicata và Tanacetum balsamita đã được nghiên cứu đối với véc tơ sốt rét chính, Anopheles stephensi, trong trạng thái chưa được chế phẩm và đã được chế phẩm nano. Các hiệu ứng diệt ấu trùng của trạng thái đã được chế phẩm nano mạnh hơn đáng kể (7,2 lần, 3,5 lần và 8 lần) so với trạng thái chưa được chế phẩm. Nanoliposome chứa tinh dầu M. spicata và T. balsamita với kích thước hạt lần lượt là 175 ± 8 và 184 ± 5 nm cho thấy hiệu quả tốt nhất (giá trị LC50 = 9,74 và 9,36 μg/mL). Các mẫu được chuẩn bị có thể được sử dụng như các chất diệt ấu trùng xanh mạnh mới chống lại muỗi An stephensi trong các thử nghiệm thực địa tiếp theo. Cũng khuyến nghị nên điều tra hiệu quả của chúng đối với các loại muỗi khác.
#Nanoliposome #carvone #Mentha spicata #Tanacetum balsamita #Anopheles stephensi #thuốc trừ sâu xanh #diệt ấu trùng.
Đánh giá các kích thước sinh thái và xã hội của thành công trong một chương trình thu hoạch bền vững dựa vào cộng đồng Dịch bởi AI
Environmental Management - Tập 67 - Trang 731-746 - 2021
Các chương trình bảo tồn dựa vào cộng đồng và quản lý tài nguyên (CBCRM) thường kết hợp hai mục tiêu là giảm nghèo và bảo tồn. Tuy nhiên, việc đánh giá mạnh mẽ các kết quả của chương trình CBCRM vẫn còn hạn chế. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống đa ngành để đánh giá các khía cạnh sinh thái và xã hội của thành công của một chương trình CBCRM được quốc tế công nhận. Chương trình này, nằm trong một trong những khu vực bảo tồn lớn nhất ở khu vực Amazon Peru (Khu bảo tồn quốc gia Pacaya-Samiria), nhằm hướng tới việc thu hoạch và thương mại bền vững một loài rùa (Podocnemis unifilis). Chúng tôi đã sử dụng phân tích theo phương pháp hỗn hợp, bao gồm phỏng vấn và mô hình khả năng tồn tại của quần thể, để hiểu ba yếu tố: cách nhận thức của người dân về những thay đổi trong quần thể được quản lý so với những thay đổi được suy luận từ các phân tích sinh thái, các chỉ số mà các bên liên quan sử dụng để đo lường thành công, và các rào cản đối với thành công lâu dài của chương trình và tính bền vững của hệ thống xã hội-sinh thái. Chúng tôi thấy rằng các bên liên quan nhận thức được xu hướng tăng trưởng trong quần thể rùa được quản lý, nhưng nhận thức này có thể khác với hiểu biết sinh thái của chúng tôi về hệ thống dưới sự quản lý hiện tại. Các phân tích khả năng tồn tại của quần thể với tỷ lệ giới tính 1:1 cho thấy kích thước quần thể sẽ giảm dưới hai trong ba kịch bản quản lý (các mức độ khác nhau của thu hoạch). Tuy nhiên, nghiên cứu này và các nghiên cứu tương tự gặp khó khăn do thiếu các tham số quần thể cụ thể về loài và địa điểm, điều này có thể cải thiện hiểu biết về hệ thống. Có những điểm yếu đáng kể đối với tính bền vững của hệ thống, nổi bật là sự giảm sút gần đây trong cầu từ nước ngoài đối với tài nguyên được thương mại. Xác định tỷ lệ thu hoạch cụ thể cho loài có tính bền vững, phát triển các chỉ số sinh thái và xã hội dựa trên địa phương, và tập trung vào quản lý thích ứng dựa trên dữ liệu sẽ tạo điều kiện cho việc xác định các điểm tác động chính cho các can thiệp quản lý trong tương lai.
#Bảo tồn dựa vào cộng đồng #quản lý tài nguyên #bền vững #động vật hoang dã #đánh giá khả năng tồn tại quần thể
Tổng số: 24   
  • 1
  • 2
  • 3